1. Khái niệm trích lập dự phòng phải thu khó đòi, khi nào cần trích lập dự phòng phải thu khó đòi?
Trích lập dự phòng công nợ phải thu là việc doanh nghiệp dự tính lập một khoản dự phòng để đối phó với những khoản công nợ có khả năng không thu hồi được. Theo quy định và thông lệ kế toán, việc trích lập dự phòng công nợ phải thu cần thực hiện khi có các dấu hiệu hoặc điều kiện sau:
a) Nợ quá hạn:
Khi các khoản phải thu quá hạn (ví dụ: quá hạn thanh toán 30 ngày, 60 ngày, hoặc 90 ngày) và chưa thu hồi được, doanh nghiệp cần xem xét trích lập dự phòng. Thời gian quá hạn càng dài, khả năng thu hồi càng thấp, do đó cần phải lập dự phòng cao hơn.
b) Nợ có dấu hiệu không thu hồi:
– Khi khách hàng hoặc đối tác của doanh nghiệp gặp khó khăn tài chính, phá sản, hoặc có dấu hiệu không còn khả năng thanh toán, doanh nghiệp cần trích lập dự phòng công nợ phải thu.
– Nếu khách hàng không liên lạc được hoặc không trả lời khi được yêu cầu thanh toán, cũng cần phải xem xét trích lập dự phòng.
c) Nợ xấu, khó đòi:
Nếu có những khoản nợ đã được xác định là khó thu hồi hoặc có thể trở thành nợ xấu (theo các tiêu chí quy định trong chuẩn mực kế toán hoặc thông lệ), doanh nghiệp phải trích lập dự phòng.
d) Đánh giá theo tỷ lệ phần trăm:
Dựa trên kinh nghiệm của doanh nghiệp hoặc theo các chuẩn mực kế toán, doanh nghiệp có thể trích lập dự phòng đối với các khoản phải thu dựa trên tỷ lệ phần trăm nhất định. Ví dụ, các khoản nợ quá hạn từ 30 đến 60 ngày có thể trích lập 10%, từ 60 đến 90 ngày là 30%, và các khoản nợ trên 90 ngày có thể trích lập tới 50% hoặc 100%, tùy theo khả năng thu hồi.
e) Nợ không có bảo đảm, hoặc bảo đảm không đủ:
Nếu các khoản phải thu không có bảo đảm hoặc bảo đảm không đủ giá trị để thu hồi nợ, doanh nghiệp cũng nên xem xét việc trích lập dự phòng.
f) Căn cứ vào kết quả phân tích tình hình tài chính của khách hàng:
Nếu khách hàng có dấu hiệu gặp khó khăn về tài chính (như thua lỗ kéo dài, tài sản giảm sút, gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ) thì doanh nghiệp cần xem xét trích lập dự phòng công nợ.
g) Quy định của pháp luật và chuẩn mực kế toán:
Các chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) yêu cầu doanh nghiệp phải lập dự phòng cho các khoản công nợ phải thu có nguy cơ không thu hồi được, đặc biệt là đối với các khoản nợ xấu, nhằm phản ánh đúng tình hình tài chính của doanh nghiệp.
h) Khi có sự thay đổi trong chính sách thu hồi nợ:
Nếu công ty có chính sách thay đổi trong việc thu hồi nợ, chẳng hạn như gia hạn thêm thời gian trả nợ cho khách hàng nhưng lại không thấy dấu hiệu thanh toán, thì cần lập dự phòng.
2. Mức trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi
Mức trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 6 Thông tư 48/2019/TT-BTC, cụ thể như sau:
(i) Đối với nợ phải thu quá hạn thanh toán, mức trích lập dự phòng như sau:
+ 30% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ 6 tháng đến dưới 1 năm.
+ 50% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ 1 năm đến dưới 2 năm.
+ 70% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ 2 năm đến dưới 3 năm.
+ 100% giá trị đối với khoản nợ phải thu từ 3 năm trở lên.
(ii) Đối với doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ viễn thông và doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ hàng hóa, khoản nợ phải thu cước dịch vụ viễn thông, công nghệ thông tin, truyền hình trả sau và khoản nợ phải thu do bán lẻ hàng hóa theo hình thức trả chậm/trả góp của các đối tượng nợ là cá nhân đã quá hạn thanh toán mức trích lập dự phòng như sau:
+ 30% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ 3 tháng đến dưới 6 tháng.
+ 50% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ 6 tháng đến dưới 9 tháng.
+ 70% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ 9 tháng đến dưới 12 tháng.
+ 100% giá trị đối với khoản nợ phải thu từ 12 tháng trở lên.
(iii) Đối với các khoản nợ phải thu chưa đến hạn thanh toán nhưng doanh nghiệp thu thập được các bằng chứng xác định tổ chức kinh tế đã phá sản, đã mở thủ tục phá sản, đã bỏ trốn khỏi địa điểm kinh doanh; đối tượng nợ đang bị các cơ quan pháp luật truy tố, giam giữ, xét xử hoặc đang thi hành án hoặc đang mắc bệnh hiểm nghèo (có xác nhận của bệnh viện) hoặc đã chết hoặc khoản nợ đã được doanh nghiệp yêu cầu thi hành án nhưng không thể thực hiện được do đối tượng nợ bỏ trốn khỏi nơi cư trú;
Khoản nợ đã được doanh nghiệp khởi kiện đòi nợ nhưng bị đình chỉ giải quyết vụ án thì doanh nghiệp tự dự kiến mức tổn thất không thu hồi được (tối đa bằng giá trị khoản nợ đang theo dõi trên sổ kế toán) để trích lập dự phòng.
3. Điều kiện của đối tượng lập dự phòng phải thu khó đòi
Các đối tượng lập dự phòng phải thu khó đòi ngoài việc thuộc các đối tượng theo quy định tại mục 2 mà đồng thời đảm bảo các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều 6 Thông tư 48/2019/TT-BTC, cụ thể như sau:
– Phải có chứng từ gốc chứng minh số tiền đối tượng nợ chưa trả, bao gồm:
+ Một trong số các chứng từ gốc sau: Hợp đồng kinh tế, khế ước vay nợ, cam kết nợ;
+ Bản thanh lý hợp đồng (nếu có);
+ Đối chiếu công nợ; trường hợp không có đối chiếu công nợ thì phải có văn bản đề nghị đối chiếu xác nhận công nợ hoặc văn bản đòi nợ do doanh nghiệp đã gửi (có dấu bưu điện hoặc xác nhận của đơn vị chuyển phát);
+ Bảng kê công nợ;
+ Các chứng từ khác có liên quan (nếu có).
– Có đủ căn cứ xác định là khoản nợ phải thu khó đòi:
+ Nợ phải thu đã quá thời hạn thanh toán từ 06 tháng trở lên (tính theo thời hạn trả nợ gốc ban đầu theo hợp đồng kinh tế, khế ước vay nợ hoặc các cam kết nợ khác, không tính đến thời gian gia hạn trả nợ giữa các bên), doanh nghiệp đã gửi đối chiếu xác nhận nợ hoặc đôn đốc thanh toán nhưng vẫn chưa thu hồi được nợ.
+ Nợ phải thu chưa đến hạn thanh toán nhưng doanh nghiệp thu thập được các bằng chứng xác định đối tượng nợ có khả năng không trả được nợ đúng hạn theo quy định tại (iii) mục 3.
+ Riêng đối với các khoản nợ mua của doanh nghiệp mua bán nợ (có đăng ký ngành nghề và hoạt động mua bán nợ theo đúng quy định của pháp luật), thời gian quá hạn được tính kể từ ngày chuyển giao quyền chủ nợ giữa các bên (trên cơ sở biên bản hoặc thông báo bàn giao quyền chủ nợ) hoặc theo cam kết gần nhất (nếu có) giữa doanh nghiệp đối tượng nợ và doanh nghiệp mua bán nợ.
Kết luận:
Trích lập dự phòng công nợ phải thu giúp doanh nghiệp giảm thiểu các rủi ro tài chính và phản ánh chính xác hơn về tình hình tài chính của mình. Điều này cũng giúp doanh nghiệp tuân thủ các yêu cầu kế toán và pháp lý.