Một vấn đề lớn nữa đối với việc soạn thảo và ban hành các chuẩn mực kế toán ở Việt Nam là chúng ta hiện nay chưa có một khung khái niệm để cung cấp nền tảng và những nguyên tắc cơ bản cho việc soạn thảo cũng như phát triển các chuẩn mực kế toán. Bài viết trình bày khía cạnh trong vấn đề phù hợp giữa chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) so với chuẩn mực kế toán tại Việt Nam (VAS) về tài sản cố định.
Mặc dù đã có những chuẩn mực kế toán tương đương hướng dẫn về TSCĐ nhưng giữa IAS và VAS vẫn còn có những nội dung chưa thực sự hòa hợp, chưa tương đồng làm ảnh hưởng tới quyền lợi của các nhà đầu tư. Có thể kế đến 4 nội dung quan trọng thể hiện sự khác nhau và giống nhau giữa VAS và IAS về tài sản cố định như sau:
1. Tiêu chuẩn ghi nhận:
a. Giống nhau:
– Đều bao gồm tài sản cố định hữu hình (TSCD) và tài sản cố định vô hình (TSCDVH)
b. Khác nhau: Điều kiện để ghi nhận tài sản cố định
– Đối với VAS cần thỏa 3 điều kiện:
- Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó.
- Tài sản cố định được sử dụng trong nhiều chu kỳ kinh doanh, có thời gian sử dụng trên 1 năm trở lên.
- Nguyên giá tài sản phải được xác định một cách tin cậy và có giá trị từ 30.000.000 đồng trở lên.
Uy tín, sự tín nhiệm được tạo ra từ nội bộ Doanh nghiệp, nhãn hiệu thương mại, quyền phát hành, danh sách khách hàng và các khoản mục tương tự được ghi nhận là TSCĐVH.
– Đối với IAS cần thỏa 2 điều kiện:
- Chắc chắn DN thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản
- Giá trị tài sản đối với DN được tính toán một cách đáng tin cậy.
Trong đó: uy tín, sự tín nhiệm được tạo ra từ nội bộ doanh nghiệp, nhãn hiệu thương mại, quyền phát hành, danh sách khách hàng và các khoản mục tương tự không được ghi nhận là tài sản của doanh nghiệp
2. Nguyên giá tài sản cố định
a. Giống nhau:
Về cách xác định nguyên giá TSCĐ có được do mua ngoài, tự xây dựng.
b. Khác nhau:
– Trong phạm vi VAS 03 không bao gồm việc đo lường và ghi nhận các chi phí tháo rời, loại bỏ và khôi phục tài sản. Trong việc xác định chi phí của một hạng mục thuộc PPE (Property, Plant and Equipment – bất động sản, nhà xưởng và thiết bị), VAS 03 chỉ bao gồm chi phí phát sinh do kết quả của việc lắp đặt hạng mục đó.
– IAS 16 cho phép hai cách kế toán (a) ghi nhận tài sản theo giá gốc (cost) hoặc (b) đánh giá lại theo giá trị hợp lý (fair value). VAS 03 chỉ cho phép ghi nhận và báo cáo theo giá gốc (at cost).
3. Xác định khấu hao và thanh lý tài sản
IAS yêu cầu doanh nghiệp xác định chi phí khấu hao riêng cho mỗi thành phần trọng yếu của một hạng mục PPE. VAS không quy định rõ chi phí khấu hao cho mỗi phần quan trọng của PPE.
Theo IAS, giá trị còn lại của tài sản sẽ được xét vào cuối mỗi năm tài chính. Nếu các số liệu kỳ vọng khác xa các ước tính trước đó thì (các) thay đổi sẽ được giải trình là thay đổi về ước tính kế toán. Giá trị còn lại của tài sản có thể tăng đến một giá trị bằng hoặc lớn hơn giá trị ghi sổ của tài sản. Từ đó, chi phí khấu hao của tài sản bằng “0”. VAS không đề cập đến việc soát xét giá trị còn lại.
Theo IAS, không dừng việc khấu hao khi tài sản trở nên nhàn rỗi hoặc không còn được sử dụng trừ khi tài sản đó đã được khấu hao hoàn toàn. Tuy nhiên, chi phí khấu hao có thể bằng 0 theo phương pháp của các đơn vị sản xuất khi không có hoạt động sản xuất.
IAS trình bày rõ hơn về ngày thanh lý một khoản mục và cách thức hạch toán thu nhập từ tiền thu thanh lý tài sản hoãn lại.
4. Về công bố thông tin
a. Đối với IAS:
– Yêu cầu trình bày chi phí khấu hao của TSCĐ trong báo cáo thu nhập và trình bày thông tin trên Thuyết minh báo cáo tài chính.
– IAS không yêu cầu trình bày về cam kết bán TSCĐ có giá trị lớn trong tương lai, giá trị còn lại tạm thời của TSCĐ không sử dụng, giá trị còn lại của TSCĐ đang chờ thanh lý và nguyên giá của TSCĐ đã khấu hao hết nhưng vẫn còn sử dụng.
b. Đối với VAS
– Không yêu cầu trình bày chi phí khấu hao của TSCĐ trong báo cáo thu nhập và trình bày thông tin trên Thuyết minh báo cáo tài chính.
– VAS còn yêu cầu trình bày về cam kết bán TSCĐ có giá trị lớn trong tương lai, giá trị còn lại tạm thời của TSCĐ không sử dụng, giá trị còn lại của TSCĐ đang chờ thanh lý và nguyên giá của TSCĐ đã khấu hao hết nhưng vẫn còn sử dụng.
Kết luận
Đến nay, đã có hơn 119 quốc gia trên thế giới thực hiện việc yêu cầu (bắt buộc) hoặc cho phép (không bắt buộc) các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán của họ sử dụng IAS/IFRS khi lập và trình bày Báo cáo tài chính. Tuy nhiên, việc áp dụng IAS/IFRS không phải là hoàn toàn dễ dàng đối với các doanh nghiệp ở các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, trong thời gian sắp tới, để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế về kế toán, phù hợp quá trình hội nhập kinh tế của đất nước, Việt Nam cần tiến hành một số giải pháp vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài, bao gồm cả giải pháp trực tiếp đối với hệ thống chuẩn mực kế toán và giải pháp thuộc về môi trường kinh tế, pháp luật.